Thứ Bảy, 16 tháng 11, 2013

Phân loại phần mềm

Mục lục

I/Open Source Software
II/Freeware
III/ Phần mềm chia sẻ (shareware)
IV/ Bản quyền (copyright)

V/ Bản quyền bên trái (copyleft)


I/Open Source Software

Phần mềm mã nguồn mở (Oss) là phần mềm máy tính mà mã nguồn được công bố và cấp phép, trong đó người giữ bản quyền cung cấp các quyền nghiên cứu, thay đổi và phân phối cho bất kỳ ai với bất kỳ mục đích nào. 


OSI sử dụng định nghĩa nguồn mở để xác định liệu một phần mềm được cấp phép nguồn mở. Định nghĩa dựa trên "hướng dẫn phần mềm miễn phí Debian", được viết và chỉnh sửa chính bởi Bruce Perens. Bài viết của Perens không dựa trên "4 nguyên tắc tự do" của "Free software" từ FSF, điều mà phổ biến rộng rãi sau đó.
Theo định nghĩa của Perens, mã nguồn mở mô tả một loạt giấy phép phần mềm cho phép công bố mã nguồn với công chúng mà không có giới hạn bản quyền. Các nguyên tắc, như được phát biểu, hoàn toàn không nói về  nhãn hiệu hàng hoá hoặc sử dụng bằng sáng chế và hoàn toàn không yêu cầu  có sự hợp tác để đảm bảo rằng bất kỳ sự thẩm tra thông thường hoặc chế độ phát hành áp dụng đối với bất kỳ công trình có nguồn gốc. Đó là một cách rõ ràng "tính năng" của mã nguồn mở có thể đặt không hạn chế về việc sử dụng hoặc phân phối bằng bất kỳ tổ chức hoặc người sử dụng. Nó cấm này, về nguyên tắc, để đảm bảo tiếp tục tiếp cận với các công trình có nguồn gốc ngay cả những người đóng góp ban đầu lớn.
Richard Stallman phản đối việc sử dụng "mã nguồn mở" cho phần mềm mà họ coi là "free software". Mặc dù "free software" đủ điều kiện coi là mã nguồn mở, Stallman coi việc đó là một sự lạm dụng.
Càng ngày, các thuật ngữ "phần mềm mã nguồn mở miễn phí" đồng thuận được sử dụng bởi các cộng đồng lớn để mô tả chung giữa phần mềm miễn phí và phần mềm nguồn mở.
Lợi ích đem lại: giúp người dùng tiết kiệm khoảng 60 tỉ Đô La mỗi năm.

II/Freeware

Phần mềm miễn phí (freeware - phân biệt với free software) là phần mềm cho phép sử dụng mà ko tính phí hoặc là phí một cách tùy chọn, nhưng thường (ko nhất thiết) là nguồn đóng với 1 hay nhiều hạn chế quyền sử dụng.
Freeware thì đối lập với phần mềm thương mại, là phần mềm được bán lấy lợi nhuận, nhưng có thể được phân phối vì mục đích thương mại với mục tiêu mở rộng thị phần của phiên bản premium.
Theo tổ chức Free Software, "freeware" là một thể loại dc định nghĩa một cách lỏng lẻo và không có định nghĩa được chấp nhận rõ ràng, mặc dù FSF nói rằng nó cần phải được phân biệt với "free software".
Thuật ngữ freeware được dùng phổ biến vào thập kỉ 80 và 90 cho chương trình được phát hành với bản thực thi mà ko công bố mã nguồn.
Chương trình được phân loại là freeware thì được cấp phép miễn phí và hoặc là đầy đủ chức năng với thời gian không giới hạn hay chỉ có vài chức năng cơ bản và chỉ được cập nhật đầy đủ với bản thương mại, hay giống như shareware.
Đối lập với free software, tác giả thường giới hạn các quyền của người dùng, bao gồm quyền sao chép, phân phối, chỉnh sửa hay trích xuất mã nguồn. Bản quyền sản phẩm có thể bao gồm thêm vài giới hạn khác.
Freeware không thể, về phương diện kinh tế, dựa trên xúc tiến thương mại. Do đó, internet là nguồn chính về thông tin mà trên đó freeware có thể kiếm được, hữu ích và không phải phần mềm độc hại. Tuy nhiện cũng có vài tờ tạp chí máy tính xếp hạng freeware và lưu trữ nó.

III/ Phần mềm chia sẻ (shareware)

Shareware (cũng được biết đến như trialware hay demoware) là phần mềm độc quyền được cung cấp cho người sử dụng một cách rất hạn chế, mà giới hạn bất kì lợi ích thương mại, sử dụng hay khai thác phần mềm. Thường có thể không có một khoản thanh toán trước, nhưng các hình thức phân phối mang tính thương mại bị giới hạn, bị giới hạn bởi sự kết hợp của các chức năng, thời gian sử dụng và tiện nghi (do thường có quảng cáo hay những nhắc nhở về việc đặt mua sản phẩm).
Mục đích của shareware là để cung cấp cho người dùng  cơ hội dùng thử chương trình với những chức năng đơn giản cùng thời gian giới hạn để đánh giá sản phẩm qua đó cân nhắc việc đặt mua nó.
Shareware thường bị giới hạn chức năng và chỉ có thể sử dụng đầy đủ sau khi đăng ký hay cho phép sử dụng tất cả tiện ích nhưng trong thời gian nhất định. Nội dung ở đây được đề cập không phân biệt 'shareware' và bản 'Free trial' của một phần mềm thương mại. Khi thời gian dùng thử hết thì chương trình sẽ dừng hoạt động cho tới khi nó được đăng ký. Thông thường shareware ko có chức năng update, chức năng chỉ có ở bản full.
Shareware thì thường được đóng gói chung với adware (phần mềm quảng cáo).

IV/ Bản quyền (copyright)

Bản quyền là một khái niệm pháp lý, ban hành bởi hầu hết các chính phủ, cho tác giả của một tác phẩm gốc độc quyền nó, thường là trong một thời gian giới hạn. Nói chung, đó là "quyền sao chép", nhưng cũng cung cấp cho người giữ bản quyền quyền được ghi cho công việc, để xác định những người có thể áp dụng sản phẩm thành các hình thức khác, những người có thể thực hiện công việc, người có thể được hưởng lợi tài chính từ nó, và quyền liên quan. Nó là một hình thức sở hữu trí tuệ (như bằng sáng chế, nhãn hiệu, và các bí mật thương mại) áp dụng đối với bất kỳ hình thức có thể trình bày một ý tưởng hoặc thông tin có nội dung và độc lập.
Bản quyền ban đầu đã được hình thành như một cách để chính phủ để hạn chế in ấn , mục đích hiện đại của bản quyền là để thúc đẩy việc tạo ra các tác phẩm mới bằng cách cho tác giả kiểm soát và lợi nhuận từ chúng . Bản quyền được cho là lãnh thổ , có nghĩa là họ không mở rộng ra ngoài lãnh thổ của một quốc gia cụ thể trừ phi nhà nước nào là thành viên của một hiệp định quốc tế . Hôm nay , tuy nhiên , điều này là không thích hợp lắm vì hầu hết các nước là các bên tham gia ít nhất một thỏa thuận như vậy . Trong khi nhiều khía cạnh của luật bản quyền quốc gia đã được tiêu chuẩn hóa thông qua hiệp định bản quyền quốc tế , luật bản quyền của hầu hết các nước có một số tính năng độc đáo . Thông thường , thời hạn của bản quyền là toàn bộ cuộc sống của tác giả cộng với năm mươi đến một trăm năm kể từ cái chết của người sáng tạo , hoặc một khoảng thời gian hữu hạn cho các sáng tạo vô danh hoặc công ty. Một số quốc gia đã yêu cầu các thủ tục để thiết lập quyền tác giả, nhưng hầu hết công nhận bản quyền trong bất kỳ công việc hoàn thành , không có đăng ký chính thức . Nói chung , quyền tác giả được thực thi như một vấn đề dân sự , mặc dù một số điều luật áp dụng chế tài hình sự .
Hầu hết các nước nhận ra những hạn chế bản quyền, cho phép "công bằng" ngoại lệ đối với độc quyền của người sáng tạo của tác giả, và tạo cho người dùng một số quyền. Sự phát triển của phương tiện truyền thông kỹ thuật số và công nghệ mạng máy tính đã thúc đẩy tái diễn các trường hợp ngoại lệ, giới thiệu những khó khăn mới trong việc thực thi quyền tác giả, và lấy cảm hứng từ những thách thức bổ sung cho cơ sở triết học của luật bản quyền. Đồng thời, các doanh nghiệp có phụ thuộc kinh tế lớn quyền tác giả đã ủng hộ việc mở rộng và mở rộng quyền sở hữu trí tuệ của mình, và tìm thêm thực thi pháp luật và công nghệ.

V/ Bản quyền bên trái (copyleft)

Bản quyền bên trái (chơi chữ của copyright) là việc sử dụng các luật bản quyền để cấp quyền phân phối bản sao và phiên bản chỉnh sửa của sản phẩm và yên cầu luật tương tự được giữ nguyên cho bản chỉnh sửa của sản phẩm. Nói cách khác, copyleft là phương pháp chung để đánh dấu sản phẩm tạo ra được chỉnh sửa,  và yêu cầu tất cả các bản chỉnh sửa và mở rộng cũng miễn phí. Copyleft là một dạng cấp phép và có thể được sử dụng để duy trì điều kiện bản quyền cho sản phẩm như phần mềm máy tính, văn bản, tác phẩm nghệ thuật. Nói chung, luật bản quyền được sử dụng bởi tác giả cấm người nhận sản xuất lại, mô phỏng theo, hay phân phối bản sao sản phẩm. Đối lập với copyright, copyleft, tác giả có thể đưa cho mọi người , người nhận bản sao, quyền sản xuất lại, mô phỏng theo hay phân phối nó và yêu cầu rằng bất kỳ kết quả bản sao nào hay bản chỉnh sửa đều bị ràng buộc bởi thỏa thuận cấp phép tương tự.
Giấy phép copyleft (cho phần mềm) yêu cầu rằng thông tin cần cho sản xuất lại và chỉnh sửa sản phẩm phải được cung cấp cho người nhận chương trình. Mã nguồn của nó thường chứa bản sao điều khoản cấp phép và thông tin về tác giả.
Giấy phép loại copyleft là một cách dùng mới của luật bản quyền hiện hành để đảm bảo một sản phẩm vẫn còn miễn phí.Giấy phép Công cộng GNU , ban đầu được viết bởi Richard Stallman , là giấy phép copyleft đầu tiên nhìn thấy sử dụng rộng rãi , và tiếp tục thống trị việc cấp giấy phép phần mềm copyleft . Creative Commons , một tổ chức phi lợi nhuận được thành lập bởi Lawrence Lessig , cung cấp một điều kiện cung cấp giấy phép tương tự được gọi là Chia sẻ tương tự

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét